Nguồn tin: Nhân Dân, 16/7/2021
Ngày cập nhật: 18/7/2021
Sáu tháng đầu năm 2021, sản lượng tôm nước lợ đạt 371 nghìn tấn (tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020).
Sáu tháng đầu năm 2021, sản lượng tôm nước lợ đạt 371 nghìn tấn (tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020), trong đó sản lượng tôm sú đạt 113 nghìn tấn và tôm thẻ chân trắng đạt 258 nghìn tấn. Mặc dù vậy, theo các chuyên gia, ngành nuôi tôm vẫn gặp một số tồn tại, khó khăn, đặc biệt là việc cấp mã số xác nhận đăng ký cơ sở nuôi đạt kết quả chưa cao.
Dịch Covid-19 khiến tôm khó xuất khẩu
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản tại Hội nghị về “Đánh giá hiện trạng và giải pháp trọng tâm của ngành tôm năm 2021”, được tổ chức ngày 16/7, tại Hà Nội: Sáu tháng đầu năm 2021, sản lượng tôm nước lợ đạt 371 nghìn tấn (tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020).
Trong đó, sản lượng tôm sú đạt 113 nghìn tấn và tôm thẻ chân trắng đạt 258 nghìn tấn. Giá tôm nguyên liệu tại đồng bằng sông Cửu Long hiện giảm do nguồn cung dồi dào và do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên khó khăn trong thu mua, vận chuyển.
Tại Bạc Liêu, giá tôm sú ướp đá cỡ 20 con/kg giảm 15.000 đồng/kg so với tháng trước xuống còn 250.000 đồng/kg.
Ước kim ngạch xuất khẩu tôm sáu tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD (trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD).
Tuy nhiên, ngành nuôi tôm vẫn gặp một số tồn tại, khó khăn, đặc biệt là việc cấp mã số xác nhận đăng ký cơ sở nuôi đạt kết quả chưa cao. Tình trạng ô nhiễm chất thải còn xảy ra phổ biến, nhất là trong nuôi thâm canh, siêu thâm canh. Hạ tầng kỹ thuật yếu kém, công nghệ nuôi chưa cao.
Tôm bố mẹ phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên, trong nước mới chỉ cung cấp được một phần, chưa chủ động trong sản xuất. Đặc biệt, vào mùa cao điểm thả giống, vùng nuôi trọng điểm tại đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn số lượng lớn tôm giống nhập từ các tỉnh Nam Trung Bộ không có nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch.
Vấn đề tồn tại nữa của ngành nuôi tôm, đó là giá thành sản xuất tôm ở nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân là do thức ăn nuôi tôm vẫn đang chiếm lỷ lệ cao trong giá thành sản xuất (khoảng 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp).
Ngoài ra, còn một số thách thức mới về xuất khẩu như sự thay đổi quy định kiểm dịch đối với sản phẩm nhập khẩu ở nhiều quốc gia, những cảnh báo về an toàn thực phẩm.
Một số thị trường nhập khẩu chính thủy sản của Việt Nam đã có những thay đổi trong chứng nhận an toàn thực phẩm, như Hàn Quốc, sản phẩm tôm phải đáp ứng quy định về xử lý nhiệt (tôm nấu chín) mới được miễn kiểm dịch.
Tuy nhiên, thời gian xử lý nhiệt theo quy định của Hàn Quốc dài, ảnh hưởng không nhỏ đến màu sắc, mùi vị... của sản phẩm. Còn thị trường Brazil quy định chế độ xử lý nhiệt khắt khe hơn rất nhiều so với hướng dẫn của Tổ chức Thú y thế giới (OIE).
Giải quyết dứt điểm các bất cập
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm, mặt hàng tôm xuất khẩu tăng trưởng tốt. Trước tháng 6, các doanh nghiệp tại các vùng sản xuất, chế biến tôm chính của Việt Nam gần như chưa bị tác động nhiều bởi dịch Covid-19 ở trong nước. Nhưng nay các doanh nghiệp rất lo lắng về tác động của dịch. Các tháng cuối năm 2021, dự báo nhu cầu nhập khẩu tôm của thế giới tăng trở lại, đặc biệt ở các thị trường lớn như châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Tuy nhiên, với tình hình dịch trong nước, đặc biệt đang diễn biến phức tạp tại các vùng trọng điểm nuôi, chế biến của cả cả nước thì việc tận dụng được cơ hội này đặt ra không ít thách thức.
“Với kịch bản lạc quan nhất là sẽ kiểm soát được dịch Covid-19 (đối với vùng sản xuất tôm) trong 2 tháng tới thì mặt hàng tôm sẽ vẫn có cơ hội tăng trưởng 12% so với năm 2020. Nếu dịch còn kéo dài hơn thì sẽ tăng dưới 9%”, ông Nguyễn Hoài Nam nói.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định năm 2021 lĩnh vực thủy sản cần giải quyết các bất cập của ngành tôm hiện nay về quy mô, sản lượng và giá thành; củng cố, phát triển ngành tôm, tạo đà phát triển, chuẩn bị những bước xa hơn, bứt phá nhanh hơn trong thời kỳ tới.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng cần thống nhất hành động trong ba trục (Chính phủ, doanh nghiệp, người dân) để quyết tâm xây dựng ngành tôm thành một ngành hàng lợi thế, mang lại giá trị cao nhất và có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Riêng diện tích nuôi tôm của Việt Nam hiện nay khoảng 740 nghìn ha. Muốn tăng diện tích nuôi trồng để tăng sản lượng rất khó. Thậm chí, theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, diện tích nuôi tôm năm nay giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2020.
Như vậy, muốn tăng năng suất thì cần phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành con giống, thức ăn, kiểm soát môi trường nuôi và thú y phòng bệnh, nâng cao chất lượng tôm tại khu vực nuôi.
Đồng thời, cần đẩy mạnh chế biến với công nghệ cao, nhiều sản phẩm, nhiều thị trường thì chúng ta mới đạt được mục tiêu Chính phủ giao cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đề nghị Cục Quản lý chất lượng nông sản và thủy sản kiểm soát tốt chất lượng an toàn thực phẩm nguyên liệu, kiểm soát tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm tôm nhằm nâng cao chất lượng. Hiện các thị trường đòi hòi quy chuẩn, do đó, cần khuyến cáo cho người sản xuất sản xuất theo yêu cầu của thị trường. Vụ Hợp tác Quốc tế thông tin kịp thời phối hợp xử lý các rào thị trường nhập khẩu tôm.
"Bộ sẽ làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường về thủ tục đất đai để làm căn cứ pháp lý cho cấp mã số vùng nuôi, đảm bảo cho truy xuất nguồn gốc. Bên cạnh đó, an toàn sinh học là yếu tố quan trọng của OIE để có thể xuất khẩu được tôm nguyên con sang các thị trường. Với sản xuất nhỏ lẻ, Bộ sẽ bàn với các địa phương tìm giải pháp căn cơ để bảo đảm an toàn sinh bệnh", ông Phùng Đức Tiến khẳng định.
THANH TRÀ